Thói quen sử dụng sai lầm khiến điện thoại bị nóng bất thường

Những thói quen sử dụng tưởng như vô hại nhưng đôi khi lại khiến điện thoại bị nóng bất thường. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng của máy mà còn gây nguy hiểm trực tiếp tới sức khỏe và tính mạng của người dùng.

Điện thoại di động đã trở thành vật bất ly thân đối với nhiều người trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Nhiều người vẫn nghĩ mình đã quá hiểu cách sử dụng và cách vận hành của một chiếc điện thoại thông minh. Tuy nhiên, chính sự chủ quan trong khi sử dụng khiến những thói quen dùng điện thoại tưởng chừng như vô hại đôi khi lại gây ra nhiều tác hại cho điện thoại của người dùng. Một trong những hậu quả đó chính là tình trạng điện thoại bị nóng lên bất thường.

Nhiều người có thói quen sử dụng điện thoại ở bất cứ đâu vào bất cứ thời điểm nào trong ngày. Tuy nhiên, việc sử dụng điện thoại với tần suất dày đặc cùng thời gian sử dụng lâu sẽ vô tình khiến cho chiếc điện thoại của chúng ta bị nóng lên. Sự tăng nhiệt này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và tuổi thọ của máy, nguy hiểm hơn đã có rất nhiều trường hợp điện thoại phát nổ ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng và sức khỏe của người sử dụng.

Một số dấu hiệu cảnh báo điện thoại của bạn đang bị tăng nhiệt bao gồm: điện thoại ấm hơn bình thường, các chương trình đang chạy chậm hơn, một số ứng dụng đóng đột ngột hoặc phải mất một khoảng thời gian để mở, quá trình sạc pin mất nhiều thời gian hơn hoặc hoàn toàn không sạc được, màn hình bị mờ hoặc đột ngột tắt nguồn, điện thoại chuyển sang chế độ nguồn điện thấp, dễ bị lỗi tín hiệu.

Nhiều thói quen khi sử dụng điện thoại tưởng như vô hại nhưng lại khiến thiết bị trở nên nóng ran. Ảnh: Shutterstock

Những sai lầm khi sử dụng khiến điện thoại bị nóng bất thường

– Sử dụng hoặc để điện thoại dưới trời nắng nóng

Với mức nhiệt từ 35 độ C trở lên, điện thoại có thể trở nên nóng lên nhanh chóng nếu người dùng để các thiết bị này dưới điều kiện thời tiết nắng nóng quá lâu. Ngoài ra, khi ăn uống ở ngoài trời nóng và để điện thoại trên bàn, chụp ảnh bằng điện thoại khi ở bãi biển cũng là nguyên nhân khiến điện thoại bị nóng lên.

Vào những ngày nắng nóng, người dùng nên tránh để điện thoại tiếp xúc với ánh nắng mặt trời ở những môi trường có nhiệt độ cao như bãi biển, ô tô, các quán ăn ngoài trời ,… Tốt hơn hết nên để điện thoại nghỉ ngơi khi phải ra ngoài trong thời tiết nắng nóng và chỉ nên sử dụng khi đã ở trong môi trường thoáng mát hơn.

Sử dụng điện thoại dưới trời nắng nóng dễ khiến thiết bị tăng nhiệt nhanh. Ảnh minh họa

– Đặt điện thoại gần với các thiết bị điện tử khác

Nhiều người có thói quen đặt các thiết bị điện tử như laptop, điện thoại, máy tính bảng,… gần nhau trong cùng một khu vực để tiện lợi cho việc sử dụng trong quá trình làm việc. Sau khi dùng xong, chúng ta cũng thường “quen tay” cất các thiết bị này vào chung một túi.

Điều này tưởng như là vô hại nhưng thực chất, các thiết bị điện tử hầu hết đều có xu hướng nóng lên sau khoảng thời gian dài sử dụng. Nếu một trong số các thiết bị này có dấu hiệu nóng lên, việc để chúng quá gần nhau sẽ dẫn đến hiện tượng truyền nhiệt, ảnh hưởng đến hiệu suất và tuổi thọ của các thiết bị. Do đó người dùng cần chú ý không nên để các thiết bị điện tử quá gần nhau mà cần giữ chúng tách biệt.

Để các thiết bị điện tử gần nhau có thể đem lại nhiều tiện lợi khi sử dụng, tuy nhiên việc để các thiết bị này quá gần có thể dẫn tới hiện tượng truyền nhiệt. Ảnh minh họa

– Để điện thoại trong túi quần

Đây chắc chắn là thói quen mà rất nhiều người dùng mắc phải. Nhiều người sau khi sử dụng điện thoại thường tiện tay nhét điện thoại vào trong túi quần mà không hề biết việc làm này gây nguy hiểm cho thiết bị cũng như chính người dùng.

Nhiệt độ từ cơ thể có thể dễ dàng ảnh hưởng tới thiết bị di động, từ đó khiến điện thoại của chúng ta bị nóng lên. Do đó, cần hạn chế và từ bỏ thói quen để điện thoại trong túi quần (đặc biệt trong thời tiết nắng nóng) để tránh việc điện thoại bị tăng nhiệt, vô tình làm giảm hiệu năng sử dụng của thiết bị.

Không chỉ gây hư hỏng điện thoại, việc thường xuyên để trong túi quần cũng ảnh hưởng tới sức khỏe của người dùng. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc thường xuyên để điện thoại trong túi sau cũng khiến người dùng sớm gặp phải tình trạng đau lưng. Nguyên nhân là bởi ở mông và hông của mỗi người đều có nhiều dây thần kinh, do đó khi có vật cứng liên tục đè vào trong thời gian dài rất có thể sẽ gây ra sự tổn thương.

Thói quen để điện thoại trong túi quần không chỉ khiến điện thoại bị nóng lên mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe người dùng. Ảnh: Shutterstock.

– Sạc pin không đúng cách

Các vấn đề về pin và sạc pin thường là nguyên nhân chính gây ra tình trạng điện thoại nóng lên bất thường và có nguy cơ phát nổ. Các sai lầm phổ biến thường gặp đó là: sạc điện thoại qua đêm; đặt điện thoại dưới gối, nệm hoặc trên các bề mặt không thông gió khác; vừa sạc vừa sửa dụng điện thoại.

Khi vừa sạc vừa đặt điện thoại dưới gối, nguy cơ điện thoại nóng lên bất thường và có nguy cơ cháy nổ là rất dễ xảy ra. Nguyên nhân bởi điện thoại sẽ bắt đầu tỏa nhiệt khi sạc pin, tuy nhiên lớp vỏ gối và drap giường lại ngăn chặn hoạt động này, nhiệt không thể tỏa ra sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dùng và tăng nguy cơ phát nổ.

Đặt điện thoại dưới gối hoặc trên các bề mặt không thông gió khác khiến điện thoại không thể tỏa nhiệt. Ảnh minh họa

Mặc dù đã có nhiều trường hợp bị tai nạn, giật điện thậm chí tử vong thương tâm khi vừa sạc vừa sử dụng điện thoại, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người chủ quan với thói quen sử dụng này. Ngoài nguy cơ bị điện giật, việc sử dụng điện thoại trong khi sạc pin khiến cho hoạt động sạc – xả năng lượng diễn ra liên tục khiến cho điện thoại bị quá tải, dẫn tới tình trạng thiết bị phát nổ. Do đó, người dùng nên để điện thoại nghỉ ngơi trong quá trình sử pin, ngoài ra nên sử dụng các thiết bị như củ sạc, dây sạc chính hãng để tránh nguy cơ điện thoại phát nổ gây nguy hiểm tới tính mạng của bản thân.

– Sử dụng nhiều chức năng khi không cần thiết

Khác với máy tính, điện thoại di động thường không có bộ phận tản nhiệt. Do đó chúng có thể nóng lên khi chạy quá nhiều chương trình và ứng dụng cùng một lúc. Vì vậy, người dùng cần kiểm tra điện thoại thường xuyên và tắt các chức năng, hoạt động khi chưa cần sử dụng đến như định vị, làm mới nền,… vì các chức năng này làm tiêu hao năng lượng của điện thoại.

Ngoài ra, các kết nối không dây như Wifi, Bluetooth vẫn có thể hoạt động ngay cả khi đã tắt màn hình mà chúng ta không hề hay biết. Do đó, chủ động ngắt các loại kết nối này khi không có nhu cầu sử dụng đến cũng là cách giúp giảm thiểu lượng công việc cho điện thoại, giúp hạn chế tình trạng nóng lên của thiết bị.

– Không thường xuyên tháo ốp điện thoại

Ốp điện thoại có tác dụng bảo vệ tránh cho điện thoại không bị trầy, xước trong trường hợp bị rơi vỡ. Do đó nhiều người không có thói quen tháo bỏ ốp thường xuyên vì lo sợ điện thoại bị hư hỏng nếu chẳng may gặp sự cố. Tuy nhiên, việc không thường xuyên tháo ốp điện thoại không những khiến chiếc ốp của bạn tích tụ thêm nhiều vi khuẩn mà còn là một trong nhiều nguyên nhân khiến điện thoại bị tăng nhiệt.

Ốp điện thoại bảo vệ thiết bị khỏi hư hỏng khi bị va chạm. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại ốp đều phù hợp để điện thoại được thông gió đủ. Hãy tháo bỏ ốp điện thoại nếu thường xuyên thấy điện thoại bị nóng lên bất thường. Nên bỏ ốp điện thoại khi sạc pin hoặc trong những ngày thời tiết nắng nóng.

Sạc điện thoại khi vẫn còn để ốp dễ khiến cho thiết bị nóng lên bất thường. Ảnh: BrightSide

Ngoài ra, vẫn còn một số nguyên nhân khác trong quá trình sử dụng người dùng thường chủ quan, không để ý dẫn đến tình trạng tăng nhiệt của điện thoại như: không sử dụng các chế độ bảo vệ điện thoại; sử dụng các tính năng nặng như chơi game, xem phim trong thời gian dài; không cập nhật hệ điều hành thường xuyên,…

Một số giải pháp giúp hạ nhiệt cho điện thoại di động

Để giúp điện thoại giảm nhiệt, người dùng có thể áp dụng một số biện pháp sau đây:

– Giữ độ sáng màn hình ở mức vừa phải: Điện thoại nhanh nóng dẫn đến việc mau hết pin có thể do người dùng để độ sáng màn hình điện thoại quá mức. Do đó, nên giảm độ sáng màn hình khoảng 30 – 40% là tốt nhất – không chỉ giúp giảm nhiệt cho điện thoại mà còn tránh gây chói mắt.

Độ sáng màn hình vừa phải giúp giảm nhiệt cho thiết bị và không gây chói mắt. Ảnh minh họa

– Kiểm tra các ứng dụng gặp lỗi: Các ứng dụng bị lỗi cũng được coi là một nguyên nhân khiến điện thoại bị nóng. Vì vậy, nên xóa các ứng dụng bị lỗi và cài đặt lại. Ngoài ra, cập nhật phiên bản mới nhất cho ứng dụng cũng là cách để tối ưu hệ thống.

– Tắt các ứng dụng chạy ngầm không cần thiết: Một nguyên nhân khác khiến điện thoại nhanh nóng là mở quá nhiều ứng dụng hay tác vụ khi sử dụng. Vì thế, hãy tắt các ứng dụng đang hoạt động ở chế độ nền bằng cách: Mở đa nhiệm -> Vuốt từ dưới lên trên để tắt các ứng dụng không cần thiết.

– Tránh để điện thoại dưới ánh nắng mặt trời: Khi ánh nắng chiếu vào, điện thoại sẽ bắt sáng và nhiệt từ mặt trời rồi giữ lại, gây nóng máy. Thiết bị sẽ càng nóng hơn nếu để lâu dưới ánh nắng mặt trời với mức nhiệt độ cao. Do đó hãy đảm bảo điện thoại không được tiếp xúc trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời để tránh nguy cơ thiết bị bị tăng nhiệt.

– Không chơi game trong thời gian dài: Khi chơi game cần chạy các chương trình yêu cầu cấu hình cao. Do đó thiết bị di động trở nên nóng cũng là điều bình thường. Tuy nhiên, nếu chơi game trong thời gian dài thì điện thoại sẽ bị quá tải công suất và nhanh nóng hơn bình thường. Do đó, trong thời gian chơi, người dùng nên có quãng nghỉ để điện thoại được nghỉ ngơi sẽ là cách hạ nhiệt tốt nhất, giúp thiết bị có thể trở lại hoạt động nhanh hơn và mát hơn.

Chơi game trong thời gian dài khiến điện thoại bị quá tải công suất, do đó thiết bị sẽ trở nên nóng nhanh hơn bình thường. Ảnh minh họa

– Sạc pin điện thoại đúng cách: Để khắc phục tình trạng điện thoại nóng kên khi sạc, người dùng cần ưu tiên sử dụng cốc sạc, dây sạc chính hãng; tháo ốp lưng khi sạc pin; tạm dừng các ứng dụng không cần thiết. Đặc biệt, cần ngưng hoàn toàn việc vừa sạc vừa sử dụng điện thoại vì không những gây hại đến thiệt bị mà còn nguy hiểm cho tính mạng người sử dụng.

 Khởi động lại điện thoại: Trong quá trình sử dụng điện thoại, các ứng dụng và tính năng trên máy đều sẽ tiêu tốn một lượng RAM nhất định. Vì vậy, các dữ liệu chứa trong RAM sẽ bị quá tải sau một thời gian dài. Để khắc phục tình trạng này, cách đơn giản nhất là tắt nguồn và khởi động lại máy. Điều này sẽ giúp làm mát đồng thời giải phóng bộ nhớ RAM, giúp giải quyết tình trạng nóng máy.

Khởi động lại thiết bị giúp cải thiện tình trạng nóng máy. Ảnh minh họa

Ngoài những cách trên, vẫn còn một số biện pháp giúp người dùng hạn chế nguy cơ điện thoại bị tăng nhiệt, gồm: tắt tạm thời dữ liệu chạy nền; dừng tạm thời việc sử dụng máy ảnh; kiểm tra các phần mềm độc hại; giảm sử dụng mạng, Bluetooth khi không cần thiết.

Có thể thấy, việc điện thoại bị nóng lên nguyên nhân chủ yếu tới từ sự chủ quan trong thói quen sử dụng của người dùng. Nhiều thói quen tưởng như vô hại nhưng lại gây ra nhiều tác hại không nhỏ cho thiết bị, ảnh hưởng trực tiếp tới an toàn của người sử dụng. Do đó, người dùng cần thay đổi thói quen sử dụng điện thoại của mình để tránh các sự cố, tai nạn xảy ra không đáng có, đồng thời bảo vệ được sức khỏe và tính mạng của bản thân.

Ngọc Linh (t/h)
https://vietq.vn/nhung-sai-lam-nguoi-dung-mac-phai-khi-su-dung-khien-dien-thoai-nong-bat-thuong-d191782.html

Năng lượng địa nhiệt: năng lượng của tương lai

Năng lượng địa nhiệt có thể là một giải pháp tiềm năng trong số các các công nghệ carbon thấp? Câu hỏi được đặt ra khi các nguồn năng lượng gió và mặt trời có chi phí cạnh tranh đang phát triển mạnh mẽ, đóng góp phần lớn vào tốc độ tăng trưởng nguồn cung điện năng cho quá trình điện khí hóa toàn cầu đến năm 2050.

Sử dụng năng lượng địa nhiệt đã được chứng minh là có ít rủi ro hơn so với các công nghệ phát thải carbon thấp khác là hydro và công nghệ thu gom, lưu trữ carbon (CCS), vốn có chi phí tương đối cao và còn nhiều vấn đề về mặt kỹ thuật cần chứng minh. Hãng phân tích Wood Mackenzie mới đây đã có bài phân tích về triển vọng của năng lượng địa nhiệt trong tiến trình giảm phát thải carbon toàn cầu.

Theo giám đốc dịch vụ chuyển tiếp năng lượng của Wood Mackenzie Prakash Sharma, các nguồn năng lượng địa nhiệt sẽ góp phần tăng cường an ninh năng lượng ở khu vực địa phương. Thế giới hiện đã phát triển các giải pháp mới, tiên tiến để có thể khai thác năng lượng địa nhiệt, trở thành trung tâm trong xu hướng không phát ròng carbon toàn cầu.

Giàn khoan thử nghiệm Thor tại Hverahlid, Iceland. Nguồn: Iceland Drilling.

Năng lượng địa nhiệt: năng lượng của tương lai

Thứ nhất, năng lượng mặt trời và năng lượng gió không thể tự vận hành hoàn toàn. Khả năng gián đoạn, thay đổi theo thời tiết là một rủi ro lớn. Trong hệ thống điện năng tương lai, các dự án điện gió, điện mặt trời cần được bổ sung hệ thống pin lưu trữ năng lượng để đáp ứng nhu cầu điện lúc cao điểm và giảm tải công suất cho hệ thống lưới điện. Đây là lý do mà năng lượng địa nhiệt thu hút sự quan tâm của dư luận khi địa nhiệt là nguồn năng lượng 24/7 và có khả năng linh hoạt.

Thứ hai, năng lượng địa nhiệt đã được biết đến và đưa vào sử dụng từ lâu. Theo dữ liệu của Wood Mackenzie Lens tại 38.000 mỏ dầu và khí đốt, nguồn năng lượng này sử dụng nhiệt năng tự nhiên của Trái Đất, tỏa ra từ vùng lõi – nơi có nhiệt độ 5.500 độ C. Tính từ mặt đất trở xuống, nhiệt độ tăng trung bình khoảng 30 độ C/km. Năng lượng địa nhiệt bề mặt hoặc gần bề mặt đã được con người sử dụng cung cấp nhiệt và điện năng trong nhiều thập kỷ qua. Máy bơm nhiệt từ lòng đất đã được sử dụng rộng rãi và phổ biến trên thị trường đại chúng. Trong chương trình “Fit for 55” của Liên minh châu Âu (EU), máy bơm nhiệt được coi là công cụ trung tâm nhằm sử dụng nguồn địa nhiệt thay thế khí và dầu cho mục đích sưởi ấm trong sinh hoạt và thương mại.

So sánh tiết kiệm chi phí của các loại hình năng lượng: than, hydrogen và địa nhiệt. Nguồn: Wood Mackenzie

Các hệ thống năng lượng địa nhiệt thông thường khai thác nguồn nước nóng, hơi nước ở độ sâu lên đến 200 m, cung cấp cho tuabin sản xuất điện. Những dự án địa nhiệt thông thường vận hành tại các địa điểm như Iceland và khu vực Vành đai lửa Thái Bình Dương. Khả năng mở rộng quy mô, khai thác nguồn nhiệt sâu hơn đối với năng lượng địa nhiệt là rất triển vọng. Hệ thống địa nhiệt tiên tiến (EGS/AGS) có thể khai thác nguồn nhiệt than ở độ sâu lên tới 3 km và hơn thế nữa. Trong các hệ thống phức tạp, các nhà điều hành có thể xây dựng thêm giếng khoan ngang, kết nối hai giếng thẳng đứng, tạo hình chữ “U” khép kín. Nước trên bề mặt sẽ được bơm vào hệ thống giếng chữ “U” mang theo nguồn nhiệt năng cung cấp cho tuabin sản xuất điện và tiếp tục tuần hoàn. Hệ thống phức tạp này phụ thuộc vào các kỹ thuật khoan và hoàn thiện giếng tiên tiến, vốn được sử dụng phổ biến trong ngành dầu khí. Sự chênh lệch nhiệt độ có thể tính toán được, qua đó thiết kế được quy mô dự án, phục vụ các trung tâm tiêu thụ năng lượng lớn.

Thứ ba là chi phí khai thác năng lượng địa nhiệt đang giảm. Bản thân nguồn năng lượng này là vô tận, miễn phí và chi phí chuyển đổi năng lượng thấp. Phần chi tiêu vốn chủ yếu tập trung vào công tác khoan và hoàn thiện giếng để khai thác nhiệt năng. Mặc dù công tác khoan hệ thống giếng phức tạp và tốn kém, nhưng lợi ích thu được khi giếng đi vào vận hành là rất kể: nguồn năng lượng phát thải carbon thấp và sử dụng được trong nhiều thập kỷ. Theo Wood Mackenzie, chi phí năng lượng (LCOE) của các dự án địa nhiệt thử nghiệm hiện nay vào khoảng 180 USD/MWh. Wood Mackenzie kỳ vọng với sự hỗ trợ từ các chính phủ, tiến bộ khoa học công nghệ trong kỹ thuật khoan và tăng trưởng đầu tư trong lĩnh vực này sẽ giúp LCOE giảm đáng kể như những gì đã trải qua đối với năng lượng gió và mặt trời.

Theo quan điểm của Wood Mackenzie, LCOE của năng lượng địa nhiệt có thể giảm xuống 75 USD/MWh vào năm 2030 và 55 USD/MWh vào năm 2050, giúp loại hình này hoàn toàn cạnh tranh với các điện than, điện khí mới áp dụng công nghệ CCS hoặc với các lò phản ứng hạt nhân module nhỏ (SMR). Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể kết hợp khai thác nguồn nước ngầm giàu lithium để phục vụ cho sản xuất pin điện, pin nhiên liệu hydro, góp phần cải thiện kinh tế hơn nữa của dự án.

Hiện nay, các tập đoàn Chevron, BP, EnBW và Mitsui đang hợp tác với các công ty chuyên ngành về năng lượng địa nhiệt như EavorLoop, Greenfire và Causeway GT trong các dự án khai thác nước nóng ở New Zealand, Canada (Alberta), Mỹ (California, Utah, Nevada), Đức, Iceland, Nhật Bản và Vương quốc Anh.

Theo các kịch bản năng lượng 1,5 độ C và 2 độ C (AET-1,5 và AET-2) của Wood Mackenzie, nhu cầu điện năng toàn cầu sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050. Trong đó, công suất lắp đặt điện mặt trời và điện gió sẽ chiếm phần lớn mức tăng trưởng 10.000 GW đến năm 2050, còn năng lượng địa nhiệt được dự báo sẽ đạt 100 GW. Yếu tố quyết định đến triển vọng của loại hình năng lượng mới này sẽ là LCOE. Wood Mackenzie kỳ vọng, LCOE địa nhiệt sẽ tiếp tục giảm, giúp nâng tổng công suất năng lượng địa nhiệt toàn cầu lên 1.000 GW vào năm 2050, vượt qua công suất hạt nhân và thủy điện toàn cầu.

Tiến Thắng
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/nang-luong-dia-nhiet-nang-luong-cua-tuong-lai-626941.html

Ấn Độ chi 3,5 tỷ USD để thúc đẩy phát triển ô tô

Ấn Độ sẽ đưa ra gói viện trợ trị giá 257 tỷ rupee (3,5 tỷ USD) để thúc đẩy sản xuất ô tô “xanh” nhằm giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Thỏa thuận khí hậu Paris.

Gói viện trợ xe ô tô thân thiện với môi trường còn được thúc đẩy bởi nhu cầu giảm thiểu ô nhiễm tại các thành phố lớn của đất nước 1,3 tỷ dân này, nơi không khí thuộc hàng ô nhiễm nhất thế giới. Gần 72% sản lượng điện sản xuất ở nước này vào năm 2020 đến từ các nhà máy điện than.

Kế hoạch này sẽ cho phép Ấn Độ có nhiều loại xe sạch hơn, chạy bằng pin điện và hydro. Chính phủ Ấn Độ hy vọng kế hoạch này sẽ mở ra một kỷ nguyên mới với một ngành công nghiệp ô tô xanh hơn và hiệu quả hơn.

Tình trạng ùn tắc giao thông tại Ấn Độ.

Gói viện trợ sẽ được cung cấp cho các nhà sản xuất ô tô và thiết bị bay không người lái ở Ấn Độ trong thời gian 5 năm. Để đủ điều kiện, các nhà sản xuất hiện tại hoặc trong tương lai sẽ cần đầu tư ít nhất 34 triệu USD vào Ấn Độ trong 5 năm, theo Bloomberg Quint.

Không có quá nhiều thông tin được tiết lộ, chương trình được chính phủ Ấn Độ công bố hôm thứ Tư (15/9) dự kiến ​​sẽ tạo ra khoảng 5,8 tỷ USD đầu tư mới và tạo ra 750.000 việc làm. Thông báo này được đưa ra trong bối cảnh hãng xe điện Tesla đang có kế hoạch thâm nhập thị trường Ấn Độ.

Awanish Chandra, một nhà phân tích nói với AFP rằng kế hoạch này gửi một thông điệp rõ ràng từ chính phủ Nel Delhi rằng họ muốn thúc đẩy năng lượng xanh. “Đây là cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Chính phủ sẽ rất vui mừng nếu Tesla đầu tư lớn. Đây sẽ là cơ hội cạnh tranh tốt cho các công ty của Ấn Độ”, ông Chandra nói thêm.

Ấn Độ là quốc gia phát thải carbon lớn thứ ba trên thế giới và dự kiến ​​sẽ trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới vào giữa thập kỷ này. Nước này đang trên đường hoàn thành vượt mức các mục tiêu đặt ra theo thỏa thuận khí hậu Paris năm 2015.

Nhưng lượng khí thải carbon dự kiến ​​sẽ tăng thêm 50% nữa vào năm 2040, do ngành công nghiệp và giao thông vận tải. Theo dự báo từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế, Ấn Độ dự kiến ​​sẽ có thêm khoảng 25 triệu xe tải trên các tuyến đường vào năm 2040.

Nh.Thạch/AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/an-do-chi-35-ty-usd-de-thuc-day-phat-trien-o-to-xanh-626044.html

Băng ở Bắc Cực ngày càng mỏng hơn do Trái Đất ấm lên

Dmitry Lobusov, thuyền trưởng của tàu phá băng 50 Let Pobedy của Nga ở vùng biển Bắc Cực, đã nhận thấy rõ sự thay đổi của khí hậu nơi đây trong 13 năm “lèo lái” con tàu.

Một tàu phá băng lớn đang cắt xuyên qua những khối băng dày trên vùng biển Bắc Băng Dương, mở ra tuyến đường hướng về Bắc Cực. Bao phủ khắp tầm mắt là một màu trắng xóa. Tuy nhiên, ngay cả ở nơi xa xôi, hẻo lánh nhất trên thế giới cũng có thể cảm nhận được tác động của tình trạng biến đổi khí hậu.

Dmitry Lobusov, thuyền trưởng của tàu phá băng 50 Let Pobedy của Nga ở vùng biển Bắc Cực, đã nhận thấy rõ sự thay đổi của khí hậu nơi đây trong 13 năm “lèo lái” con tàu. 50 Let Pobedy thuộc hạm đội tàu phá băng được Nga sử dụng để thực hiện những kế hoạch tham vọng ở Bắc Cực.

Băng tan tại Bắc Cực với tốc độ nhanh do hiện tượng thời tiết nóng lên trên toàn cầu. (Ảnh: AFP)

Những con tàu lớn chạy bằng năng lượng hạt nhân làm nhiệm vụ phá băng, mở đường cho các tàu thương mại giúp Nga cung cấp dầu, khí đốt và khoáng sản cho phần còn lại của thế giới, và cuối cùng là thiết lập một tuyến hàng hải nối giữa châu Á và châu Âu.

Sau gần 30 năm bám biển, phần lớn ở Bắc Cực, ông Lobusov đã chứng kiến những tác động do hiện tượng ấm lên toàn cầu gây ra. Người thuyền trưởng 57 tuổi cho biết, vào những năm 1990 và đầu những năm 2000, băng cứng và dày hơn. Đã từng có rất nhiều khối băng lâu năm hình thành trên bề mặt các đại dương vùng cực và tồn tại qua nhiều mùa băng tan chảy.

Tuy nhiên, ông cho hay hiện người ta không còn thấy những khối băng lâu năm ở Bắc Cực. Theo ông, ngày nay, hầu hết lớp băng bao phủ Bắc Cực được hình thành trong năm và tan nhanh vào mùa Hè.

Các nhà khoa học cho rằng đây chắc chắn là tác động của biến đổi khí hậu. Theo báo cáo của Cơ quan khí tượng Nga (Rosgidromet) công bố hồi tháng 3 vừa qua, lớp băng ở Bắc Cực hiện mỏng hơn từ 5-7 lần so với những năm 1980 của thế kỷ trước, và trong những tháng mùa Hè, các vùng biển hoàn toàn không có băng.

Vào tháng 9/2020, diện tích bao phủ băng ở vùng biển Bắc Cực thuộc Nga là 26.000 km2 – mức thấp nhất từ trước đến nay so với cùng thời điểm trong năm. Rosgidromet cho biết nhiệt độ ở Nga – quốc gia có hơn 30% diện tích nằm trong vòng Bắc Cực, đang tăng nhanh hơn so với mức trung bình trên toàn cầu, với mức tăng 0,5 độ C mỗi thập kỷ kể từ năm 1976.

Cũng theo thuyền trưởng Lobusov, Bắc Cực vào mùa Hè chìm trong một màn sương mù. Ông cho rằng đó cũng là tác động của hiện tượng Trái Đất ấm lên, khiến độ ẩm trong không khí tăng.

Theo các nhà nghiên cứu, băng ở biển Bắc Cực đang mỏng đi nhanh gấp đôi so với suy đoán trước đây, thậm chí một số khu vực ở Bắc Cực có thể trở nên không có băng vào năm 2040./.

Phan An (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/bang-o-bac-cuc-ngay-cang-mong-hon-do-trai-dat-am-len/740956.vnp

Trí tuệ nhân tạo – công nghệ của tương lai

Với xu thế phát triển công nghệ và ứng dụng trong đời sống xã hội đang thay đổi không ngừng, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đang là điểm đến của các nhà khoa học trong tương lai.

Nhận định về sự phát triển của công nghệ trí tuệ nhân tạo, Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác công nghệ (Bộ KH&CN) cho biết, theo dòng chảy của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo ngày càng được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Mặc dù được John McCarthy, một nhà khoa học máy tính người Mỹ đề cập lần đầu tiên vào những năm 1950 nhưng đến ngày nay thuật ngữ trí tuệ nhân tạo mới thực sự được biết đến rộng rãi và được các “ông lớn” của làng công nghệ chạy đua phát triển.

AI là công nghệ sử dụng đến kỹ thuật số có khả năng thực hiện những nhiệm vụ mà bình thường phải cần tới trí thông minh của con người, được xem là phổ biến nhất. Đặc trưng của công nghệ AI là năng lực “tự học” của máy tính, do đó có thể tự phán đoán, phân tích trước các dữ liệu mới mà không cần sự hỗ trợ của con người, đồng thời có khả năng xử lý dữ liệu với số lượng rất lớn và tốc độ cao.

Hiện mỗi ngày trên toàn cầu có khoảng 2,2 tỷ GB dữ liệu mới (tương đương 165.000 tỷ trang tài liệu) được tạo ra và được các công ty, như Google, Twitter, Facebook, Amazon, Baidu, Weibo, Tencent hay Alibaba thu thập để tạo thành “dữ liệu lớn” (big data). Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành khoa học máy tính và công nghệ thông tin, bản chất của trí tuệ nhân tạo vẫn do con người làm ra, họ xây dựng các thuật toán, lập trình bằng các công cụ phần mềm công nghệ thông tin, giúp các máy tính có thể tự động xử lý các hành vi thông minh như con người.

Công nghệ trí tuệ nhân tạo hiện đang được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống. Ảnh minh họa 

Trí tuệ nhân tạo có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người…tất cả là do AI được cài một cơ sở dữ liệu lớn, được lập trình trên cơ sở dữ liệu đó và tái lập trình trên cơ sở dữ liệu mới sinh ra. Cứ như vậy cấu trúc của AI luôn luôn thay đổi và thích nghi trong điều kiện và hoàn cảnh mới. Dự báo đến năm 2030 của công ty kiểm toán và tư vấn tài chính PwC, GDP toàn cầu có thể tăng trưởng thêm 14% từ sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, AI đã xuất hiện trong nhiều ngành, từ cung cấp dịch vụ mua sắm ảo và ngân hàng trực tuyến đến giảm chi phí đầu tư trong sản xuất và hợp lý hóa chẩn đoán trong chăm sóc sức khỏe. AI đã thúc đẩy hầu hết các ngành công nghiệp tiến lên và thay đổi cuộc sống của nhiều người.

Trong lịch sử phát triển của mình từ năm 1960 đến năm 2018, thế giới đã có gần 340.000 sáng chế đồng dạng và hơn 1,6 triệu bài báo khoa học liên quan đến phát triển trí tuệ nhân tạo được công bố. Trong thập niên 80, AI đã bắt đầu được quan tâm, nhưng đến những năm 2012 sự tăng tốc mới trở nên mạnh mẽ. Giai đoạn 2006-2012, số công bố sáng chế bình quân tăng 8% trong một năm, nhưng đến giai đoạn 2012-2017 mức tăng đã đạt 28% trong một năm. Số lượng đơn sáng chế liên quan đến AI tăng từ 8.515 trong năm 2006 lên đến 12.473 năm 2011 và 55.660 năm 2017 (tăng gấp 6, 5 lần trong vòng 12 năm).

Trong nghiên cứu khoa học, các công bố bài báo liên quan đến AI cũng tăng lên rất nhanh chóng, đặc biệt trong thời gian đến năm 2018 gần đây với 1.636.649 bài báo được công bố. Sự xuất hiện của các bài báo khoa học về AI bắt đầu sớm hơn 10 năm trước khi diễn ra cuộc chạy đua bảo hộ sáng chế công nghệ AI. Chứng tỏ, kết quả của nghiên cứu khoa học cơ bản về AI đã có hiệu quả về mặt ứng dụng khi các cuộc đua đăng ký bảo hộ sáng chế gia tăng sau đó.

Theo Mediastandard, AI được chia làm ba loại gồm trí thông minh nhân tạo hẹp (ANI), trí thông minh phổ biến nhân tạo (AGI) và trí tuệ siêu nhân tạo (ASI). Những dự đoán về ứng dụng công nghệ AI trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, khởi nghiệp và chính phủ có thể định hướng mục tiêu phát triển trong tương lai.

Đối với việc hỗ trợ hệ thống cổng thông tin chính phủ, công nghệ AI có thể là chìa khóa để tiến tới việc cải tiến cải cách hành chính hiệu quả, triệt để, giúp thay đổi đáng kế và giải quyết nhiều vấn đề bất cập hiện nay về quản lý và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Điển hình là việc ứng dụng AI vào hệ thống chatbot (trả lời tự động) và trợ lý ảo tại các trung tâm hành chính. Điều này cho phép người dân truy vấn thông tin nhận được câu trả lời nhanh chóng, hiệu quả cũng như ngăn chặn tình trạng xếp hàng, chờ đợi như trước kia.

Với lượng dữ liệu khổng lồ lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của chính phủ, AI có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều bộ dữ liệu để rút ra thông tin, cũng như tóm tắt một loạt các dạng dữ liệu. Tuy nhiên để triển khai được tốt hiệu quả, vấn đề an ninh mạng và bảo mật thông tin cũng cần được hệ thống AI quan tâm và vá kín.

Đối với việc phát triển nhận dạng khuôn mặt, việc nhận diện khuôn mặt bằng AI là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào việc xác minh đặc tính gương mặt, máy tính tự động xác định, nhận dạng một người nào đó từ một bức hình ảnh kỹ thuật số hoặc một khung hình trong video. Nhận diện khuôn mặt bằng công nghệ AI thuộc một nhánh của thị giác máy tính, mà thị giác máy tính tốt hơn rất nhiều so với mắt thường của con người. Một trong những cách xác định là dựa vào những điểm nút của khuôn mặt. Công nghệ AI có thể đo tới 80 điểm nút (khoảng cách giữa các điểm trên một khuôn mặt giúp cơ chế nhận dạng khuôn mặt (FR) trở nên dễ dàng hơn.

Với cơ chế FR, một mạng lưới dạng thần kinh được hình thành trong hệ thống bằng cách nhập dữ liệu để tạo nhận dạng mẫu và những dữ liệu này bao gồm hình ảnh khuôn mặt của hàng triệu người được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau như mạng xã hội, trang web, camera giám sát có chức năng ghi nhận các ứng dụng khác có khai báo nhận dạng khuôn mặt…AI triển khai thuật toán lưu trữ khoảng cách các điểm nút trong cơ sở dữ liệu của nó, quét nhận dạng và khớp định danh cá nhân với dữ liệu đang có.

Hiện nay ứng dụng này được tích hợp với các hệ thống giám sát như tại cổng chấm công của công ty, các hệ thống giám sát tại sân bay, ga tàu, nơi công cộng; nhận diện khuôn mặt trong hệ thống an ninh quốc gia; trong hệ thống bảo an ngân hàng, tòa nhà…

Công nghệ AI có thể giúp quá trình nhận dạng khuôn mặt được dễ dàng, nhanh chóng hơn. Ảnh: Mediastandard

Trong ngành vận tải, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trên những phương tiện vận tải tự lái, điển hình là ô tô. Sự ứng dụng này góp phần mang lại lợi ích kinh tế cao hơn nhờ khả năng cắt giảm chi phí cũng như hạn chế những tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên việc ứng dụng này vẫn chưa được phổ biến vì vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, nhưng với sự hỗ trợ của thuật toán Deep Learning (học sâu) với hàng hoạt các chức năng như nhận dạng và xử lý hình ảnh; nhận dạng và điều khiển bằng giọng nói, xử lý ngôn ngữ tự nhiên; phát hiện vật cản, giải quyết bài toán điều khiển thời gian thực (real time) và xây dựng được một cơ cở dữ liệu khổng lồ về hệ thống giao thông và các tình huống giao thông… thì ứng dụng này trong tương lai sẽ sớm được đưa vào sử dụng.

Xe tự lái sẽ an toàn và xử lý thông minh các tình huống vì chúng được tích hợp nhiều tính năng tự động, các bộ cảm biến xung quanh xe luôn được phát tín hiệu phủ đủ rộng và đủ xa để phát hiện vật cản giúp phát hiện nhanh chóng các chướng ngại vật, các camera nhận dạng các tín hiệu ảnh để phân tích xử lý kịp thời theo các thuật toán với dữ liệu có sẵn (biển báo, chỉ dẫn giao thông, theo dõi phương tiện, người đi đường…)

Công nghệ AI đã mang lại thành công lớn trong các ngành công nghiệp khác nhau, tuy nhiên đỉnh cao phát triển của nó vẫn chưa đến. Năm 2016, thị trường toàn cầu của AI đạt trị giá 4 tỷ USD nhưng dự đoán sẽ lên tới 169 tỷ USD vào năm 2025 và 15.700 tỷ USD vào năm 2035. Với xu thế phát triển công nghệ và ứng dụng trong đời sống xã hội đang thay đổi không ngừng, công nghệ AI đang là điểm đến nhiều hơn nữa của đa số các nhà khoa học trong tương lai.

Phong Lâm
https://vietq.vn/tri-tue-nhan-tao-la-cong-nghe-cua-tuong-lai-thu-hut-su-chu-y-cua-nhieu-nha-khoa-hoc-d191269.html

Mỗi cá nhân sẽ có 1 mã QR thống nhất toàn quốc

Việc sử dụng một mã QR cá nhân thống nhất trong tất cả các nền tảng, ứng dụng công nghệ nhằm tạo thuận lợi tối đa cho mỗi người dân và các cơ quan, tổ chức khi thực hiện các nghiệp vụ phòng, chống dịch COVID-19.

Trao đổi với báo chí, ông Đỗ Lập Hiển, Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ phòng chống COVID-19 quốc gia cho biết Bộ TT&TT vừa ban hành hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật đối với phân hệ hiển thị mã QR cá nhân thuộc các nền tảng, ứng dụng phòng, chống dịch COVID-19 tại Quyết định số 1405/QĐ-BTTTT.

Tài liệu này quy định về các yêu cầu kỹ thuật đối với phân hệ hiển thị mã QR cá nhân, hướng dẫn việc cấp và sử dụng mã QR cá nhân trong các nền tảng, ứng dụng công nghệ phục vụ phòng, chống dịch COVID-19.

Theo đó, mỗi cá nhân sử dụng các nền tảng, ứng dụng phòng, chống dịch COVID-19 được cấp 1 mã QR cá nhân. Mã QR cá nhân có thể được sử dụng để cá nhân, tổ chức có thẩm quyền đọc và truy vấn các dữ liệu liên quan phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Việc hiển thị và sử dụng một mã QR cá nhân thống nhất trong tất cả các nền tảng, ứng dụng nhằm tạo thuận lợi tối đa cho mỗi người dân và các cơ quan, tổ chức khi thực hiện các nghiệp vụ phòng, chống dịch COVID-19. Người dân có thể lựa chọn cài đặt, sử dụng nền tảng, ứng dụng có cung cấp mã QR cá nhân phù hợp với nhu cầu và không cần cài đặt nhiều ứng dụng khác nhau.

Ông Đỗ Lập Hiển cũng cho biết Bộ TT&TT đã hoàn thành xây dựng nền tảng QR quốc gia và đã sẵn sàng triển khai. Hiện nay, cần có thời gian để các ứng dụng kết nối, đồng bộ. Việc này sẽ chỉ cần khoảng 1 tuần để thực hiện.

Các nền tảng phục vụ việc cung cấp, quản lý mã QR cá nhân cần tuân thủ Quy chế số 733/QC-BCĐ ngày 13/5/2020 của Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch bệnh COVID-19 về quản lý dữ liệu y tế của người khai báo y tế từ các phần mềm phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19.

Các nền tảng, ứng dụng phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 trước khi triển khai cần được Bộ TT&TT và Bộ Y tế đánh giá đáp ứng yêu cầu kỹ thuật tại tài liệu này.

Nền tảng, ứng dụng phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 đáp ứng yêu cầu kỹ thuật được công bố tại website: https://covid19.tech.gov.vn.

Thực tế, thời gian qua, các giải pháp, ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ phòng, chống dịch đóng vai trò rất quan trọng trong thực hiện khai báo y tế điện tử; truy vết, phát hiện người tiếp xúc gần với người nhiễm COVID-19; quản lý người cách ly, giám sát các khu cách ly; đánh giá nguy cơ dịch bệnh ở các địa phương; quản lý công tác tiêm chủng, kết quả xét nghiệm…

Mặc dù các bộ, ngành, doanh nghiệp đã phát triển nhiều giải pháp, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phòng, chống dịch nhưng thiếu sự kết nối, chia sẻ. Nhiều công cụ khi triển khai trong thực tế chưa tạo thuận lợi cho người dân sử dụng, khiến nhiều người dân lúng túng khi phải sử dụng nhiều ứng dụng công nghệ phòng, chống dịch khác nhau. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là trong thời gian sớm nhất phải có một ứng dụng duy nhất phục vụ phòng, chống dịch, thuận tiện cho người dân sử dụng, đáp ứng được yêu cầu về thông tin, dữ liệu phục vụ công tác phòng, chống dịch.

Tại cuộc họp với các bộ ngành liên quan ngày 10/9, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã giao Bộ TT&TT làm đầu mối chỉ đạo các doanh nghiệp, cơ quan liên quan khẩn trương phát triển ứng dụng mới, đồng thời hướng dẫn chi tiết, triển khai đồng loạt.

Thông tin người dân đã khai báo trên các ứng dụng trước đây được tự động cập nhật, chuyển sang ứng dụng mới, không phải khai báo lại từ đầu.

Bộ TT&TT tích hợp tất cả dữ liệu được hình thành từ các ứng dụng, công cụ có sẵn trước đây thành cơ sở dữ liệu thống nhất, tiếp tục được cập nhật thường xuyên khi người dân dùng ứng dụng mới.

Các thông tin về sức khỏe, đi lại, tiếp xúc của người dân được quản lý tập trung, thống nhất và chỉ phục vụ cho mục đích phòng, chống dịch, bảo đảm an toàn thông tin, không được sử dụng vào bất kỳ mục đích nào khác.

Hiền Minh
https://baocantho.com.vn/moi-ca-nhan-se-co-1-ma-qr-thong-nhat-toan-quoc-a137879.html