“Chạy đua” lắp trại điện gió khổng lồ ngoài khơi

Các trang trại điện gió ngoài khơi có tiềm năng gây nóng lên toàn cầu (Global Warming Potential) rất thấp trên một đơn vị điện năng được tạo ra, tương tự như các trang trại gió trên đất liền. Các dự án gió ngoài khơi cũng có ưu điểm là hạn chế ảnh hưởng của tiếng ồn và cảnh quan so với các dự án trên đất liền.

Theo CNBC, Tập đoàn năng lượng SSE của Anh và đối tác Na Uy là Equinor vừa công bố đã hoàn thành một thỏa thuận tài trợ cho dự án trang trại điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới Dogger Bank trị giá 8 tỷ USD.

Trang trại sẽ có tổng công suất 3,6 GW. Hai giai đoạn đầu của trang trại điện gió sẽ được xây dựng đồng thời, mỗi giai đoạn có công suất 1,2 GW. Giai đoạn thứ 3 của dự án đang được phát triển theo một lịch trình khác, dự kiến kết thúc vào cuối năm 2021.

Trang trại điện gió Dogger Bank nằm ở Biển Bắc, ngoài khơi phía đông bắc nước Anh. SSE Renewables sẽ chịu trách nhiệm về giai đoạn xây dựng và Equinor sẽ phụ trách hoạt động.

Tổng cộng 3 giai đoạn được lên kế hoạch từ nay đến năm 2026, khi hoàn thành sẽ tạo ra trang trại điện gió ngoài khơi lớn nhất thế giới.

“Chạy đua” lắp trại điện gió khổng lồ ngoài khơi


Mô phỏng turbine gió ngoài khơi của Mỹ.

Các giai đoạn 1 và 2 sẽ sử dụng tuabin Haliade-X 13 MW của hãng GE Renewable Energ, có khả năng cung cấp năng lượng cho 4,5 triệu ngôi nhà ở Anh hằng năm. Công việc xây dựng trên bờ cho dự án đã bắt đầu vào đầu năm nay.

Tháng trước, Thủ tướng Anh Boris Johnson cho biết ông muốn nước này trở thành nước dẫn đầu thế giới về sản xuất điện sạch chi phí thấp.

Còn tại Mỹ – nền kinh tế lớn nhất thế giới, công ty Vineyard Wind cũng vừa công bố kế hoạch xây dựng trang trại điện gió ngoài khơi quy mô lớn đầu tiên tại nước này với những turbine cao tới 260 m.

Trang trại bao gồm hơn 60 turbine gió khổng lồ sẽ được lắp đặt cách bờ biển Martha’s Vineyard ở bang Massachusett khoảng 24 km. Khi vận hành đầy đủ vào năm 2023, cơ sở sẽ tạo ra đủ năng lượng để cung cấp cho 400.000 hộ gia đình ở vùng New England.

Với chiều cao lên tới 260 m, mỗi turbine Haliade-X của hãng GE Renewable Energy có công suất thiết kế lên tới 13 MW, mạnh mẽ đến mức một vòng quay của cánh quạt có thể sản xuất đủ điện cho một hộ gia đình sử dụng trong 2ngày.

Khi hoạt động hết công suất, trang trại Vineyard Wind với tổng cộng 62 turbine có thể tạo ra 312 MWh điện/ngày.

Dự án trại điện gió ngoài khơi quy mô lớn đầu tiên ở Mỹ của Vineyard Wind còn được kỳ vọng sẽ giúp cắt giảm hơn 1,6 triệu tấn khí thải carbon mỗi năm, qua đó góp phần đáng kể vào mục tiêu chống biến đổi khí hậu của Khối Thịnh vượng chung (Commonwealth).

Vineyard Wind cho biết việc xây dựng trang trại sẽ bắt đầu vào nửa cuối năm 2021 với vốn đầu tư lên tới 3 tỷ USD. Công ty ban đầu có kế hoạch lắp đặt 84 turbine gió nhưng sau đó rút xuống còn 62 do một số trở ngại. Mỗi turbine dự kiến được đặt cách nhau ít nhất 1,3 km.

Cuối năm ngoái, Trung Quốc đã phát triển turbine gió ngoài khơi lớn nhất châu Á tại thành phố Trùng Khánh, phía tây nam nước này. Thiết bị, có tên mã là H210-10MW, do công ty năng lượng HZ Windpower thuộc Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc phát triển, với các turbine gió có đường kính cánh quạt lớn hơn 200 m.

H210-10MW có công suất thiết kế 10 MW. Khi đi vào hoạt động, mỗi turbine ước tính tạo ra sản lượng điện lên tới 40 triệu kWh mỗi năm, cao gấp đôi các mẫu turbine gió hiện nay.

Turbine H210-10MW sẽ được lắp đặt tại các trang trại điện gió ven biển ở tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông.

Trung Quốc hiện là quốc gia đứng đầu thế giới trong việc phát triển điện gió. Năm ngoái, các trang trại điện gió trên cạn và ngoài khơi của nước này cho sản lượng điện lần lượt chiếm 44% và 37% thị trường toàn cầu.

Theo baochinhphu.vn
https://petrotimes.vn/chay-dua-lap-trai-dien-gio-khong-lo-ngoai-khoi-589851.html

Nhật Bản hỗ trợ kinh phí phát triển máy bay sử dụng nhiên liệu hydro

Nhằm thực hiện mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, Chính phủ Nhật Bản sẽ hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp trong nước phát triển thế hệ máy bay mới sử dụng nguyên liệu hydro.

Chính phủ Nhật Bản sẽ hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp trong nước phát triển thế hệ máy bay mới sử dụng nguyên liệu hydro nhằm thực hiện mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực này.

Máy bay sử dụng nhiên liệu hydro hóa lỏng sẽ không thải ra khí CO2, tuy nhiên, nhiệt độ bảo quản cần đảm bảo dưới âm 250 độ C, do đó, bình chứa nhiên liệu phải đảm bảo độ bền và sức chứa lớn. Bên cạnh đó, việc phát triển động cơ sử dụng nhiên liệu hydro cũng sẽ tốn khoản kinh phí lớn, do đó, Chính phủ Nhật Bản dự kiến sẽ sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ từ “Quỹ phát triển” với quy mô lên đến 2.000 tỷ yen (19 tỷ USD) sẽ được thành lập trong năm 2020 để thực hiện mục tiêu đưa lượng khí thải CO2 về mức bằng không trước năm 2050 mà Thủ tướng Suga Yoshihide đã đặt ra.

Máy bay chạy bằng khí hydro (Ảnh: ZeroAvia).

Hiện tại Nhật Bản không có các hãng sản xuất máy bay giống như Airbus của châu Âu hay Boeing của Mỹ. Tuy nhiên, các tập đoàn công nghiệp của Nhật Bản như Mitsubishi, IHI, Kawasaki cũng đang sản xuất các bộ phận quan trọng như động cơ máy bay. Do đó, Chính phủ Nhật Bản sẽ hỗ trợ một phần kinh phí cho các công ty này trong quá trình phát triển các linh kiện dùng trong máy bay sử dụng nguyên liệu là hydro.

Trong nỗ lực thực hiện các cam kết về bảo vệ môi trường, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản cũng đưa vào dự toán ngân sách năm 2021 khoản kinh phí hỗ trợ phát triển động cơ, pin tích điện của máy máy bay sử dụng năng lượng điện.

Chính phủ Nhật Bản kỳ vọng các khoản kinh phí hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu phát triển, trong bối cảnh các công ty hàng không liên tục cắt giảm các đơn đặt hàng sản xuất máy bay mới do hoạt động kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ dịch viêm đường hô hấp cấp (COVID-19)./.

Bùi Thị Minh Hằng (TTXVN/Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/nhat-ban-ho-tro-kinh-phi-phat-trien-may-bay-su-dung-nhien-lieu-hydro/680890.vnp

IEA: Chưa bao giờ hiệu quả năng lượng lại thấp như hiện nay

Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), những tiến bộ về hiệu quả năng lượng sẽ đạt mức thấp nhất trong năm nay do cuộc khủng hoảng Covid-19. Giám đốc điều hành của tổ chức, Fatih Birol cho biết: “Tôi rất lo ngại rằng những cải thiện về hiệu quả năng lượng toàn cầu hiện đang ở mức thấp nhất trong một thập kỷ qua”.

Cường độ năng lượng, một chỉ số liên quan đến hoạt động kinh tế toàn cầu với tiêu thụ năng lượng, thực sự dự kiến ​​sẽ chỉ tăng 1% trong năm nay, theo dự báo của IEA. Đây là tỷ lệ thấp nhất kể từ năm 2010. Xu hướng này có thể được giải thích bởi sự chậm lại trong việc xây dựng các tòa nhà mới, tiết kiệm năng lượng hơn và việc mua xe mới tiêu thụ ít nhiên liệu hơn.

Đầu tư vào hiệu quả năng lượng dự kiến ​​sẽ giảm 9% trong năm nay trên toàn cầu. Các ngành sử dụng nhiều năng lượng, chẳng hạn như luyện kim hoặc hóa chất, dường như ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng hơn so với các lĩnh vực hoạt động khác.

Theo IEA, xu hướng hiện tại thấp hơn nhiều so với mức cần thiết để chống lại sự nóng lên toàn cầu và ô nhiễm không khí. Cơ quan tư vấn cho các nước phát triển về chính sách năng lượng kêu gọi các biện pháp “khẩn cấp” để giải quyết vấn đề này. IEA lưu ý rằng, các kế hoạch kích cầu mang lại niềm tự hào cho lĩnh vực xây dựng và hỗ trợ cho xe điện, nhưng kêu gọi các phương thức khác cần được khám phá như thiết bị điện thế hệ mới. IEA cũng nhận thấy rằng có rất ít nguồn lực được phân bổ để giúp cho xe đốt trong đạt hiệu quả năng lượng cao.

IEA cũng lấy làm tiếc về sự mất cân bằng rất mạnh giữa các vùng: riêng châu Âu tập trung 86% các biện pháp kích thích công nhằm mục đích hiệu quả năng lượng.

“Hiệu quả năng lượng nên được đặt lên hàng đầu trong danh sách những việc cần làm đối với các chính phủ đang tìm kiếm sự phục hồi bền vững: đó là cỗ máy tạo việc làm, thúc đẩy hoạt động kinh tế, tiết kiệm tiền. Hiệu quả năng lượng tiết kiệm tiền cho người tiêu dùng, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng quan trọng và giảm lượng khí thải”, ông Fatih Birol nói. “Không có lý do gì để không dành nhiều nguồn lực cho nó”, giám đốc IEA kết luận.

Nh.Thạch/AFP
https://petrotimes.vn/iea-chua-bao-gio-hieu-qua-nang-luong-lai-thap-nhu-hien-nay-588575.html

Tiêu chuẩn quốc tế giúp phân loại vật liệu polyethylene tái chế

Tiêu chuẩn quốc tế WK74657 được Ủy ban quốc tế ASTM đề xuất giúp các doanh nghiệp, tổ chức có thể phân loại vật liệu polyethylene sử dụng để tái chế.

Một tiêu chuẩn quốc tế ASTM được đề xuất sẽ hỗ trợ việc xác định các vật liệu polyetylen tái chế. Tiêu chuẩn đề xuất (WK74657) trình bày một hệ thống phân loại có khả năng chỉ ra tổng hàm lượng tái chế, nguồn gốc vật liệu, đặc tính vật lý, chỉ số chất lượng và hướng dẫn quy định.

“Tiêu chuẩn này được đề xuất sẽ giúp người mua và người bán vật liệu tái chế có thể xác định các thuộc tính vật dụng và phân loại trong trường hợp chúng chưa được thử nghiệm”, ông Jeffrey Biesenberger, thành viên của ASTM International về Hệ thống thoát nước tiên tiến cho biết.

WK74657 – Tiêu chuẩn quốc tế giúp phân loại polyethylene trong vật liệu tái chế.

Theo ông Biesenberger, tiêu chuẩn được đề xuất sẽ hữu ích cho bất kỳ cơ quan, doanh nghiệp hay cá nhân có liên quan đến vật liệu nhựa nhiệt dẻo tái chế, bao gồm: Các nhà sản xuất/tái chế cơ khí, Nhà sản xuất/tái chế hóa chất, Khách hàng mua vật liệu tái chế, Các nhà thiết kế chỉ định vật liệu tái chế, Nhà thiết kế các sản phẩm phức tạp, nhiều thành phần, Cơ sở thu hồi vật liệu, Các nhóm lợi ích chung, Các nhà sản xuất sản phẩm nguyên chất sẽ được tái chế, Các nhà sản xuất compatibilizer.

WK74657 là một trong những tiêu chuẩn được đề xuất mà tiểu ban nhựa tái chế (D20.95) hiện đang phát triển. Ủy ban hoan nghênh các chuyên gia kỹ thuật trong việc xác định đặc tính của nhựa nhiệt dẻo tái chế, bao gồm polyethylene terephthalate (PET), polyethylene (PE) và polypropylene (PP). Điều này bao gồm các chuyên gia kỹ thuật xác định các đặc tính vật lý, lưu biến, phân tích, nhiệt và các đặc tính khác.

Bảo Linh
http://vietq.vn/tieu-chuan-quoc-te-giup-phan-loai-vat-lieu-polyethylene-tai-che-d181371.html

Xử lý tấm thu năng lượng mặt trời hết hạn: Biến rác thải thành… “tiền”

Mặc dù là nguồn năng lượng sạch, với sự phát triển một cách nhanh chóng, điện mặt trời vẫn khiến nhiều người cảm thấy quan ngại, tuy nhiên, theo các chuyên gia, loại rác thải này vẫn còn hữu ích…

Theo báo cáo hiện trạng toàn cầu về năng lượng tái tạo, trong các nguồn năng lượng tái tạo, điện mặt trời đang tăng trưởng rất nhanh và hiện chỉ xếp thứ 3 (sau thủy điện và điện gió) về công suất lắp đặt với tổng công suất năm 2019 trên toàn cầu là 627GW. Việt Nam thuộc top 5 nước tăng trưởng nhanh nhất về công suất năng lượng mặt trời, chỉ sau Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản, tổng công suất điện mặt trời đưa vào khai thác tại Việt Nam năm 2019 là 4.8 GW, tăng mạnh so với mức 108 MW chỉ một năm trước đó.

Trước thực trạng sự phát triển “nóng” của các nhà máy điện mặt trời, không ít lo ngại đã xuất hiện từ dư luận về việc kim loại nặng từ tấm pin quang điện phế thải có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường khi hết vòng đời sử dụng…


Sự phát triển của điện mặt trời, bên cạnh những thách thức đã được đặt ra, còn là cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp Việt Nam – Ảnh: TN

Về mặt quản lý Nhà nước, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, thành phần của các tấm pin mặt trời bao gồm khung nhôm, kính cường lực, màng bảo vệ, pin, tấm nền, dây dẫn và hộp kết nối. Tuổi thọ trung bình của các tấm pin năng lượng mặt trời từ 10-20 năm, tùy thuộc vào địa điểm và khu vực môi trường nơi triển khai dự án.

Tấm pin năng lượng mặt trời thải loại (hết thời hạn sử dụng) tại Việt Nam, được quản lý theo các quy định về quản lý chất thải, chủ nguồn thải có trách nhiệm phân định rác thải từ các tấm pin mặt trời theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng chất thải nguy hại để quản lý cho phù hợp (QCVN 07:2009/BTNMT).

Trong dự thảo Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi, Bộ Tài nguyên Môi trường cũng đang chủ trì xây dựng và sẽ ban hành danh mục các chất thải nguy hại, chất thải công nghiệp phải kiểm soát và chất thải công nghiệp thông thường.

Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng quy định cụ thể về chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh phải đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu theo quy định của pháp luật, từ đó, việc quản lý các tấm pin năng lượng trời thải trong thời gian tới sẽ hoàn thiện và khoa học hơn, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.

Còn dưới góc nhìn chuyên gia, việc phát triển điện mặt trời hoàn toàn phù hợp với xu thế hiện nay của thế giới, trong đó, vấn đề xử lý rác thải điện mặt trời sau khi hết hạn cũng đã được nhắm tới và bước đầu được triển khai, với những công nghệ hiện nay, tại Việt Nam, các doanh nghiệp hoàn toàn làm được và có thể đón đầu cơ hội kinh doanh mới.

Công nghệ hoà toàn toàn xử lý được các tấm thu năng lượng mặt trời sau khi hết hạn sử dụng – Ảnh: VNN

Thông tin với báo chí, PGS.TS Võ Viết Cường (Khoa Điện – Điện tử, Đại học Sư phạm kỹ thuật TP.HCM) – người nghiên cứu về năng lượng tái tạo, chia sẻ: “Chúng ta phải xác định được rằng, không có gì là sạch tuyệt đối cả, nhưng năng lượng mặt trời giảm hệ số khí thải đến 90% so với các nguồn năng lượng truyền thống”.

Theo nghiên cứu của PGS.TS Võ Viết Cường, một dự án điện mặt trời vẫn tạo ra C02 như bình thường. Tính toán của ông cho thấy, hệ số khí thải của ngành điện Việt Nam (tùy cơ cấu các nguồn điện) khoảng 120-130 gam cacbon/kWh, trong khi đó, với điện mặt trời (phát sinh khí thải từ khai thác nguyên vật liệu thô, sản xuât ra tấm thu năng lượng, tái chế) khoảng 10 gam cacbon/kWh.

Ông Hoàng Tiến Dũng – Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) khi thông tin với báo chí cũng từng nhấn mạnh: công nghệ hoàn toàn xử lý được các tấm thu năng lượng mặt trời sau khi hết hạn sử dụng, chứ không phải là “chỉ có vứt đi, không thể tái chế”.

Theo ông Dũng: “Đã có những công ty ở Mỹ, Pháp xử lý những tấm thu năng lượng mặt trời, khoa học công nghệ trong lĩnh vực này đang tiến bộ rất nhanh, tin tưởng rằng khoảng 20 năm nữa khi chúng ta có những tấm pin thải ra từ nhà máy, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn làm được. Tôi có tiếp xúc với một số doanh nghiệp, họ nói muốn đầu tư vào lĩnh vực này nhưng thị trường còn nhỏ quá nên chưa thể làm, tuy nhiên, trong tương lai, họ sẽ coi đó là một lĩnh vực kinh doanh tốt”.

Không chỉ có vậy, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng tái tạo cũng khẳng định, tấm thu năng lượng mặt trời có tỷ lệ tái chế rất cao, vật liệu thu hồi có giá trị lớn nhất là Bạc (Ag), tuy trọng lượng không nhiều nhưng tỷ lệ trong giá thành là trên 50%.

Theo DDDN
https://petrotimes.vn/xu-ly-tam-thu-nang-luong-mat-troi-het-han-bien-rac-thai-thanh-tien-586358.html

Lần đầu tiên sau 20 năm, cơn khát nhiên liệu sinh học hạ nhiệt

Nhu cầu về nhiên liệu sinh học giảm lần đầu tiên sau hai thập kỷ, do sự bùng nổ của đại dịch Covid-19 và giá dầu giảm mạnh trong những tháng gần đây, một cú sốc đáng lo ngại cho toàn ngành.

Olivier Lemesle, giám đốc bộ phận nghiên cứu của công ty Xerfi, nhận xét: “Sự sụt giảm giá dầu đã có tác động rất tiêu cực đến nhiên liệu sinh học”, vì chúng không còn đủ sức cạnh tranh khi đối mặt với giá hiện tại của vàng đen.

Do đó, sản lượng nhiên liệu sinh học cho giao thông vào năm 2020 sẽ giảm 11,6% so với sản lượng năm 2019, tuy nhiên vẫn đạt mức kỷ lục, theo báo cáo hàng năm của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) được công bố vào đầu tháng 11.

Tổ chức cho biết trong tất cả các nguồn năng lượng tái tạo, nhiên liệu sinh học là loại nhiên liệu bị giảm sử dụng nhiều nhất do cuộc khủng hoảng y tế.

Bởi vì nhiên liệu sinh học và nhiên liệu hóa thạch không đóng vai trò ngang nhau vào năm 2020: trong khi chi phí của một thùng dầu diesel sinh học tương đương vẫn vào khoảng 70 đô la (con số do ngành công nông nghiệp Pháp đưa ra vào tháng Tư), trong khi giá thô dầu liên tục giảm từ đầu năm nay, do nhu cầu giảm mạnh bởi các biện pháp quyết liệt để hạn chế sự di chuyển của hàng hóa và người nhằm hạn chế sự lây lan của Covid-19.

Hiện đang phục hồi, một thùng dầu Brent đã chạm ngưỡng 50 đô la.

Tuy nhiên, các sản phẩm thay thế xăng và dầu diesel sản xuất từ ​​thực vật không thiếu ưu điểm, đặc biệt là có lợi cho môi trường vì chúng đảm bảo giảm thiểu phát thải khí nhà kính ít nhất 50% so với nhiên liệu hóa thạch tương đương.

Jean-Philippe Puig, Giám đốc điều hành của tập đoàn Avril (gần một phần ba doanh thu đến từ nhiên liệu sinh học), khẳng định: “Nhiên liệu sinh học có vị trí của nó, chúng là một phần của giải pháp môi trường”.

Tuy nhiên, bên cạnh sự cạnh tranh không bình đẳng về giá khi đối mặt với một thùng dầu thô, lĩnh vực nhiên liệu sinh học vẫn phụ thuộc vào ý chí chính trị, ví dụ như quyết định – hay không – tăng trần cho việc sử dụng nhiên liệu sinh học tại các trạm bán lẻ, vì chúng thường bị trộn lẫn nhiên liệu thông thường (ví dụ SP95-E5 chứa tối đa 5%, dầu diesel B7 lên đến 7%).

Cuối cùng, sự phát triển của ô tô điện, và trong dài hạn của động cơ hydro, là những mối đe dọa trong dài hạn với nhiên liệu nói chung và với nhiên liệu sinh học nói riêng.

Nh.Thạch/AFP
https://nangluongquocte.petrotimes.vn/lan-dau-tien-sau-20-nam-con-khat-nhien-lieu-sinh-hoc-ha-nhiet-587478.html